Công dụng chữa bệnh của cây hoa đất
Hoa đất là cây thuốc được xác định rất quý hiếm với mức độ đe dọa bậc R, được ghi tên vào Sách đỏ Việt Nam. Hoa đất còn nhiều tên gọi khác như cây không lá, ký sinh hoàn, xà cô, tỏa dương, củ ngọc núi…, tên khoa học là Balanophora Laxiflora hay Balanophora Cucphuongensis (vì được phát hiện tại Rừng Quốc gia Cúc Phương – Ninh Bình), thuộc họ dương đài.
Hoa đất không có lục diệp tố, khác với các loài đã biết ở khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, hoa đất cũng được tìm thấy ở Kon Tum. Có thông tin 2 loài hoa đất khác cũng được phát hiện ở các tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bình Phước.
Giàu dược tính
Hoa đất là loại dược thảo trông như một cây nấm ký sinh trên rễ của những cây gỗ khác thường thấy ở các loại thuộc họ đậu hoặc dâu tằm hay các loài tre… Hoa đất cao 8-15 cm, củ sần sùi. Thân ký sinh là cuống cụm hoa mang 6-10 lá dạng vảy, phiến lá hình mũi mác dài 1,5-2 cm, rộng 1-1,5 cm.
Hoa đơn tính, khác gốc, hợp thành bông nạc. Cả cụm hoa đực và cụm hoa cái đều hình trứng hay hình đầu. Hoa đực không có cuống rõ, khối phấn bị ép ngang. Hoa cái mọc xung quanh chân vảy bảo vệ, vảy hình trứng cụt đầu có 1 vòi nhụy.
Hoa đất mỗi năm trổ hoa 1 lần vào mùa đông xuân, từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau rồi tàn lụi dần. Hoa rất thơm, tỏa hương vào chiều tối và sáng sớm. Hoa đất không có quả, sinh sản vô tính, tức tái sinh bằng cách đẻ nhánh.
Hoa đất là loại giàu dược tính. Bộ phận sử dụng làm thuốc là củ của hoa đất, sau khi thu hoạch về loại bỏ tạp chất, rửa sạch để ráo nước, thái nhỏ, phơi khô trong bóng râm (âm can) để dùng dần.
Hoa đất được sử dụng riêng hoặc phối hợp cùng các vị thuốc khác dưới dạng thuốc sắc hay ngâm với rượu uống. Hoa đất thường được sử dụng làm thuốc bổ máu, kích thích ăn ngon miệng, phục hồi sức khỏe nhanh, dùng trị các chứng nhức mỏi chân tay, người mới ốm dậy, phục hồi sức khỏe cho phụ nữ sau sinh…
Nhiều công dụng
Xin giới thiệu vài phương thuốc tiêu biểu từ hoa đất.
– Ăn ngủ kém, da xanh: Biểu hiện mệt mỏi, cơ thể suy nhược. Dùng hoa đất 20 g, sắc lấy nước đặc chia 2 – 3 lần uống trong ngày.
– Phụ nữ sau khi sinh: Dùng thuốc hoa đất sắc uống, rất nhanh hồi phục sức khỏe. Hoa đất 15 –
20 g, ích mẫu thảo khô 30 g, cho vào 3 chén nước sắc còn 1 chén. Sau đó sắc nước 2, nước 3. Đổ lẫn 3 chén thuốc của 3 lần, sắc lại còn 1 chén, chia 2 – 3 lần uống trong ngày. Cần uống liền 30 ngày sẽ cho kết quả rất tốt.
– Nam sinh lý suy nhược: Biểu hiện rối loạn cương, người mệt mỏi. Dùng hoa đất 100 g, rễ đinh lăng 100 g, ba kích nhục 80 g, dâm dương hoắc (sao với mỡ dê) 50 g, đương quy 50 g, hà thủ ô đỏ 50 g, câu kỷ tử 50 g, thục địa 50 g, bạch tật lê 50 g, trần bì 30 g. Tất cả ngâm với 5 lít rượu gạo có độ cao, sau 20 ngày là sử dụng. Ngày uống 2 lần vào trước hoặc sau bữa ăn hay trước lúc ngủ, mỗi lần 30 ml.
– Chữa liệt dương: Hoa đất 12 g, thục địa 15 g, sơn thù 15 g, sơn dược 15 g, phục linh 12 g, câu kỷ tử 15 g, nhục thung dung 12 g, dâm dương hoắc 30 g, ba kích 12 g, bạch nhân sâm 12 g, lộc nhung 6 g, táo nhân (sao) 12 g, thỏ ty tử 12 g, thiên môn đông 9 g, cam thảo 9 g. Tán bột mịn, làm hoàn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 1 hoàn 9 g, chiêu với nước trắng, kiêng ăn các thức tanh lạnh trong thời gian sử dụng thuốc.
– Bổ thận, trị đau lưng (kể cả đau nhức xương khớp, gối mỏi, đại tiện khô kết): Hoa đất 16 g, hoàng bá 16 g, quy bản 16 g, hoàng cầm 16 g, đỗ trọng 16 g, ngưu tất 16 g, tri mẫu 16 g, địa hoàng 10 g, đương quy 10 g, phá cố chỉ 8 g, tục đoạn 8 g. Tán bột mịn trộn rượu, hồ làm hoàn, mỗi lần uống 15 – 20 g, chiêu với nước muối loãng, ngày 2 lần.
– Trị hoạt tinh, di tinh, sinh lý yếu mệt: Hoa đất 120 g, tang phiêu tiêu 120 g, long cốt 40 g, bạch phục linh 40 g. Tán bột mịn, trộn đều làm hoàn, mỗi lần uống 15 – 20 g, chiêu với nước muối loãng, ngày 2 lần.
– Thuốc bổ thận tráng dương: Hoa đất 10 g, nhân sâm 12 g, hoàng kỳ 16 g, đỗ trọng 16 g, nhục thung dung 8 g, thỏ ty tử 12 g, xa sàng tử 12 g, phúc bồn tử 12 g, đương quy 12 g, bạch truật 12 g, thục địa 16 g, ba kích 12 g, dâm dương hoắc 12 g, lộc nhung 12 g, câu kỷ tử 12 g, đại táo 5 quả, long nhãn 10 g, cam thảo 6 g, xuyên khung 8 g, hà thủ ô đỏ 12 g. Sắc ngày 1 thang lấy 3 lần nước thuốc rồi làm lại còn 250 ml, chia 3 lần uống trong ngày. Cần uống liền 7 thang. Nếu uống được rượu thì có thể dùng phương trên nhưng mỗi vị cần gấp 5 lần cho cả thang thuốc, ngâm với 5 lít rượu trong 30 ngày rồi mới gạn rượu và cho vào 500 ml mật ong trộn đều để uống dần. Ngày uống 3 lần trước bữa ăn, mỗi lần 25 – 30 ml.
– Trị chứng xuất tinh sớm: Hoa đất 20 g, thục địa 30 g, đỗ trọng 30 g, đuôi heo 150 g, gừng tươi
15 g, đại táo 8 quả. Đuôi heo làm sạch cắt khúc, gừng tươi giã nát, các vị rửa sạch cho cả vào nồi hầm nhỏ lửa, sau 3 giờ lấy ra ăn cái, uống nước.