Cải thiện sinh lý với nhục thung dung

Cây nhục thung dung. Truyền thuyết nói trên, tuy phản ánh một phần sự thật, đó là tác dụng bổ ích của nhục thung dung, đối với chức năng sinh sản của con người, nhưng  có những lầm lẫn về mặt thực vật. Trước hết, nhục thung dung không phải là một loại nấm,  mà là một loại “thảo bản” […]

Cây nhục thung dung.

Truyền thuyết nói trên, tuy phản ánh một phần sự thật, đó là tác dụng bổ ích của nhục thung dung, đối với chức năng sinh sản của con người, nhưng  có những lầm lẫn về mặt thực vật. Trước hết, nhục thung dung không phải là một loại nấm,  mà là một loại “thảo bản” (cây thảo, cỏ). Nhục thung dung không phải là một loài thực vật thông thường, mà là loài ký sinh, phải sống nhờ (ký sinh) vào cây khác. Mùa xuân đến, mầm cây nhục thung dung đâm thủng mặt đất, mọc nhô lên trên, nhìn giống như một cái chày với đầu hơi nhọn, bên ngoài phủ kín lớp lá vẩy màu vàng,  lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, như ngọn  tháp vàng, rất hoành tráng. Cây thường cao khoảng từ 15-30cm, có khi tới hàng mét. Vào các tháng 5, tháng 6 cây ra hoa dày đặc; hoa mọc ra từ chóp (phần ngọn), màu vàng nhạt, hình chuông, xẻ 5 cánh, cánh hoa màu xanh hoặc tím nhạt; tới các tháng 6, tháng 7 kết quả, nhỏ li ti, màu xám. Nhờ có lớp lá vẩy phủ kín toàn bộ bề mặt bên ngoài, nên tránh bị mất nước và có thể chịu đựng được điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở vùng hoang mạc, và được mệnh danh là “cây dũng sĩ trên hoang mạc”. Như vậy, nhục thung dung không sinh ra từ những giọt tinh của ngựa bạch, nhưng vẫn là một loại thực vật hết sức đặc biệt.

Dược liệu từ nhục thung dung

Trên thực tế, dược liệu – vị thuốc nhục thung dung được khai thác từ 3 loài cây cùng họ nhục thung dung (Orobranchaceae): Thông dụng nhất là cây nhục thung dung –  có tên khoa học Cistanche salsa (C. A. Mey.) G. Bek; Thứ đến là cây  thung dung – có tên khoa học là  Cistanche deserticola Y. G. Ma.  Thứ ba là cây mễ nhục thung dung – có tên khoa học Cistanche ambigua G. Beck (Bge).

52-tm13

Vị thuốc nhục thung dung, hiện tại ở nước ta còn hoàn toàn phải nhập khẩu. Tại những nơi có cây mọc, người ta thu hoạch vào hai mùa xuân và thu. Loại thu hoạch vào mùa xuân, gọi là điềm thung dung (thung dung ngọt) hay đạm thung dung (thung dung nhạt). Dược liệu có hình gần trụ tròn, hơi dẹt, một đầu hơi nhỏ, hơi cong, dài khoảng 10-30cm, đường kính 3-6mm, cây chưa phân nhánh. Bề mặt màu xám hoặc màu nâu, phủ kín lớp lá vẩy dầy đặc, nung núc như thịt, xếp theo hình mái ngói, chất thuốc chắc, hơi dai, khó bẻ gãy, có chút chất dầu. Mặt cắt màu nâu nhạt, có những đốm trắng hoặc khe nứt, nếm thấy vị hơi ngọt. Điềm thung dung là loại  dược liệu chất lượng cao, vì có chứa nhiều loại hoạt chất.

Bổ ích với cả nam và nữ

Nhục thung dung là vị thuốc đã được sử dụng trong Đông y từ 2000 năm trước và đã được đưa vào trong sách Thần Nông bản thảo kinh, bộ sách thuốc cổ nhất của Đông y học.  Vị thuốc còn có những tên khác, như nhục tùng dung,  thung dung, địa tinh (nghĩa là tinh chất của đất),  kim duẩn (là cây măng vàng),  đại vân, hắc tư lệnh (vì có tác dụng bổ thận mạnh).

Theo Đông y, nhục thung dung có vị ngọt, mặn, tính ấm; vào 2 kinh thận, đại tràng; Có tác dụng bổ thận, ích tinh, nhuận táo, hoạt tràng. Chủ trị nam giới liệt dương (dương nuy), nữ giới không có thai, đới hạ (nhiều khí hư), băng lậu, lưng gối lạnh đau, cơ bắp không có sức, huyết khô tiện bí (táo bón do huyết khô).

Các kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, hàm lượng hoạt  chất sinh học trong nhục thung dung rất phong phú. Theo Hiện đại dưỡng sinh bảo kiện trung dược từ điển, nhục thung dung có chứa các chất như  boschnaloside, orobanin, 8- epilogahic acid, betaine,… Còn chứa nhiều loại acid hữu cơ và trên 10 acid amin. Theo các nghiên cứu dược lý, nhục thung dung là loại thuốc có tác dụng kiềm chế quá trình lão suy và kéo dài tuổi thọ, tăng thể lực, tăng cường khả năng miễn dịch, có tác dụng hạ huyết áp ở mức độ nhất định và có tác dụng như một loại hormon sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận, khắc phục tình trạng chức năng tuyến thượng thận bị suy giảm và dẫn tới các bệnh liên quan.      

Như vậy có thể thấy, nhục thung dung là vị thuốc bổ, với nhiều tác dụng quý, và có ích đối với cả nam giới và nữ giới.

Một số phương thuốc có sử dụng vị nhục thung dung:

– Chữa dương nuy (liệt dương, rối loạn cương):

(1). Nhục thung dung 30g, dâm dương hoắc 50g,  rượu trắng nửa lít. Ngâm ít nhất 1 tuần, hàng ngày lắc bình. Mỗi ngày uống 3 lần, mỗi lần 15-20ml.

(2). Nhục thung dung 25g, gạo tẻ 50 -100g; thêm nước, cho vào nồi gốm, nấu to lửa cho sôi, sau nấu nhỏ lửa cho đến khi cháo chín nhừ, thêm muối, mì chính, chia ra ăn 2 lần, sáng sớm và buổi tối. Người âm hư hoặc bí đại tiện do thực nhiệt kiêng dùng.

– Chữa di tinh: Nhục thung dung (thái nhỏ) 30g, thỏ ty tử 10g, xương sống dê 500g, gạo tẻ 50-100g, nấu cháo ăn trong ngày.

– Chữa tảo tiết (xuất tinh sớm): Nhục thung dung 100g, tỏa dương 100g, long cốt 50g, tang phiêu tiêu 50g, phục linh 25g, rượu trắng 3 lít. Ngâm ít nhất 15 ngày, thỉnh thoảng lắc bình. Mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 20-30ml.

– Chữa vô sinh ở nam giới:  Nhục thung dung (thái nhỏ) 30g, nhân sâm (thái nhỏ) 15g, thục địa hoàng 15g, hải mã 10g, lộc nhung (thái nhỏ) 10g, rượu trắng 1 lít. Ngâm ít nhất 1 tháng; sau đó mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15-20ml; khi bị cảm phát sốt kiêng dùng.

– Chữa nữ giới vô sinh, tình dục lạnh nhạt: + Nhục thung dung 50g, ích mẫu thảo 30g, đương quy 30g, xuyên khung 30g, xích thược 25g, tiên linh tỳ 50g, rượu trắng 2 lít. Ngâm ít nhất trong 1 tháng.  Mỗi lần dùng 15-20ml, hòa với mật ong; ngày uống 2 lần. + Nhục thung dung 25g, thỏ ty tử 15g, sơn dược 30g, thịt dê nạc 500g, gạo tẻ 50 – 100g, mắm muối gia vị lượng thích hợp. Thịt dê thái nhỏ, các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín, cùng với gạo nấu cháo. Thêm gia vị, chia ra  ăn trong ngày.

– Chữa suy nhược thần kinh: Nhục thung dung 10g, sơn thù du 5g, thạch xương bồ 4g, phục linh 6g, thỏ ty tử 8g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia 3 lần uống trong ngày. Hâm nóng thuốc khi uống.

– Chữa tiểu tiện nhiều lần: Nhục thung dung 500g, thục địa 200g, sơn dược 200g, thỏ ty tử 200g, ngũ vị tử 50g. Tất cả sấy khô, tán thành bột mịn, trộn với mật làm viên to cỡ hạt đỗ. Ngày uống 2 lần, sáng và chiều, mỗi lần 5g, chiêu thuốc bằng nước muối loãng.

– Chữa đại tiện táo bón: Nhục thung dung 15g, thảo quyết minh (hạt muồng ngủ) 10g, mật ong lượng thích hợp. Nhục thung dung, thảo quyết minh tán thô; sắc nước hoặc hãm nước sôi, chế thêm mật ong,  uống thay nước trong ngày.

– Chữa tóc bạc sớm: Nhục thung dung 50g, kỷ tử 100g, cam cúc hoa 50g, thục địa hoàng 50g, thần khúc 50g, nhục quế 30g, rượu trắng 2.500ml. Các vị thuốc giã nhỏ, bọc vào túi vải, ngâm trong rượu trắng, ít nhất một tháng, chắt lấy rượu sử dụng. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 10ml.

Lượt xem: 1.377
Nguồn:agarwood.org.vn Sao chép liên kết
Bài viết liên quan
Tìm kiếm chúng tôi