Thận theo đông y ảnh hưởng đến các tạng phủ khác như thế nào?
Theo Đông y, Thận là cơ quan quan trọng nhất trong cơ thể; nó được xem như gốc rễ của hoạt động sống và nền móng của sự di truyền. Khái niệm về Tạng Thận trong Đông Y rộng hơn so với “cơ quan” Thận theo giải phẫu Tây y. Nó thực hiện chức năng sinh dục, tiết niệu, nội tiết, xương cốt, huyết dịch cho đến công năng của hệ thống thần kinh. Trong thận chứa nguyên âm và nguyên dương (cũng được gọi là Thận âm và Thận dương). Thận cũng liên quan mật thiết với các tạng phủ khác nhằm thực hiện điều hòa chức năng sinh lý của cơ thể.. Mối quan hệ của thận với các cơ quan khác là những mối quan hệ tương sinh và tương khắc với các trạng thái vận động không ngừng. Đông y sử dụng học thuyết Ngũ hành như một công cụ để giải thích sinh lý các tạng phủ trong cơ thể, hiện tượng bệnh lý và hướng dẫn chẩn đoán, điều trị trên lâm sàng.
Thận ảnh hưởng đối với Phế
Dựa vào học thuyết ngũ hành, mối quan hệ giữa Thận với Phế giống như sự liên hệ giữa mẹ và con. Thận thuộc Thủy còn Phế thuộc Kim; Thủy và Kim tương sinh (Kim sinh Thủy, Thủy nhuận Kim). Chúng có tác dụng ảnh hưởng phụ thuộc lẫn nhau về sinh lý và bệnh lý.
Phế là cơ quan hô hấp. Hít vào khí trong (thanh khí) từ không khí thiên nhiên và thải ra khí dơ (trọc khí) của cơ thể, làm trao đổi khí giữa bên trong và ngoài cơ thể. Tùy thuộc vào sự vận hành của Phế, khí có thể lưu thông xuyên suốt cơ thể, vì vậy sự chuyển hóa trong cơ thể luôn được đảm bảo.
Tuy nhiên, hô hấp không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào chức năng của Phế, Thận cũng tham gia điều hòa quá trình hô hấp. Để duy trì khí trao đổi có hiệu quả, khí hít vào đã được Phế tinh chế phải đưa xuống Thận để được Thận thu nạp một cách thích hợp. Thận chủ “nạp khí” nghĩa là thu nhận, giữ lại khí hít vào của phế, điều tiết hoạt động hô hấp.
Thông thường hoạt động hô hấp tùy thuộc vào sự điều hòa lẫn nhau của Thận và Phế. Mối quan hệ này được nói rõ trong “Loại chứng trị tài” (Chẩn đoán phân biệt và điều trị các bệnh lý – Lâm Bội Cầm 1839 – nhà Thanh): “Phế chủ khí và Thận là gốc của khí; Phế chủ xuất khí và Thận chủ nạp khí; âm dương tương giao hô hấp được thông suốt là kết quả của sự cân bằng giữa âm và dương”.
Để duy trì hô hấp được thông suốt, Thận khí phải sung mãn và chức năng nạp khí của Thận không bị ảnh hưởng. Khi Thận khí suy nhược và không nạp được khí, khí đi xuống không được Thận thu nạp có thể dẫn đến các vấn đề về Phế như hít vào khó khăn và thì thở ra dài. Tình trạng sẽ nặng hơn khi vận động nhiều. Trong Đông y, đây được gọi là Thận không nạp khí. Trên lâm sàng, bệnh này có thể gặp trong viêm Phế quản mạn tính người cao tuổi, khí Phế thũng và Tâm Phế mạn, tất cả là kết quả của Thận hư khí nghịch, thận không nạp khí gây ra..
Thận ảnh hưởng đối với Tỳ
Trong khi Thận được xem như là “Tiên thiên” và nguồn gốc của sự sống, thì Tỳ được xem như là “Hậu thiên” và là nguồn sinh hóa khí huyết. Hai cơ quan này hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau.
Tỳ chủ vận hóa. Điều đó có nghĩa Tỳ là cơ quan chính cho tiêu hóa, hấp thu và vận chuyển tinh chất dinh dưỡng đến toàn cơ thể. Tinh chất dinh dưỡng là nguyên liệu cơ bản tạo nên huyết dịch, khí và tân dịch trong cơ thể. Chính vì vậy mà Tỳ được xem là “hậu thiên” và là nguồn gốc sản sinh ra khí huyết. Để hoạt động tốt, Tỳ phụ thuộc vào sự ôn ấm và hoạt động thúc đẩy của Thận dương. Theo “Y môn bổng hát” viết: “Chức năng vận hóa của Tỳ và Vị được thúc đẩy nhờ sự ôn ấm và thúc đẩy của Thận dương”. Điều đó có nghĩa rằng “Tiên thiên” hỗ trợ “Hậu thiên”, nó cho phép Tỳ và Vị hoạt động một cách thông suốt. Và kết quả làm thức ăn và nước uống được tiêu hóa và tinh chất dinh dưỡng được sản xuất, đảm bảo bổ sung dinh dưỡng cho cơ thể.
Khi Thận dương hư suy, Tỳ sẽ không được ôn ấm như bình thường, chức năng vận hóa Tỳ trở nên bất thường dẫn đến tình trạng tiêu chảy. Trong “Cảnh Nhạc toàn thư” viết: “Thận hoạt động như cánh cổng của Vị, khai khiếu ở tiền âm và hậu âm; vì vậy chúng điều khiển quá trình tiểu tiện và đại tiện.
Nếu Thận dương suy giảm, tức là mệnh môn hỏa suy, âm trong cơ thể thịnh lên cực độ, dẫn tới tiêu chảy liên tục. Trên lâm sàng, ở người cao tuổi và người bệnh lâu ngày, có thể từ Thận dương suy kém dẫn đến Tỳ không được ôn ấm gây ra tiêu chảy là triệu chứng thường gặp. Trên một số người với triệu chứng ngũ canh tả, phép điều trị thường là ôn ấm Tỳ Thận.
Thận ảnh hưởng đối với Tâm
Theo học thuyết Ngũ hành, Tâm thuộc hỏa, Thận thuộc thủy. Chúng được phân loại tương ứng thuộc Dương và Âm. Tâm và Thận có quan hệ mật thiết, tương quan chặt chẽ và chế ước lẫn nhau. Nếu có bất thường quan hệ chức năng giữa Tâm và Thận, thì sẽ phá vỡ sự cân bằng động giữa thuộc tính Âm và Dương hay giữa Thủy và Hỏa trong cơ thể, gọi là “Tâm Thận bất giao”.
Mối quan hệ cụ thể giữa Tâm và Thận được thể hiện như sau:
Thủy hỏa ký tế (điều hòa qua lại)
Theo Đông y, Tâm ở phần trên của cơ thể, nó thuộc Dương và chủ hỏa, có tính chất động. Trong khi đó, Thận nằm ở phần dưới cơ thể, nó thuộc Âm và chủ Thủy, có tính chất tĩnh. Theo lý luận Đông Y, sinh lý bình thường, Tâm hỏa giáng xuống Thận cùng với Thận dương ôn ấm Thận âm và ngăn ngừa Thận âm quá thịnh. Mặt khác, Thận thủy phải thăng lên cùng với Tâm âm để nuôi dưỡng Tâm dương, cũng là ngăn ngừa Tâm dương hoạt động thái quá. Đông y cho rằng: Khi Thận thiếu hỏa của Tâm, thủy sẽ lạnh; khi Tâm thiếu Thủy của Thận, hỏa sẽ thái quá”. Khi thủy và hỏa hài hòa, quan hệ cân bằng giữa âm ở dưới và dương ở trên giúp duy trì sự đảm bảo cần thiết cho sức khỏe (gọi là thủy hóa ký tế).
Một khi sự cân bằng giữa Tâm hỏa giáng xuống và Thận thủy thăng lên bị phá vỡ, sẽ dẫn đến bệnh lý. Ví dụ khi Thận âm hư tổn, Thận thủy không khống chế được Tâm hỏa, dẫn đến Tâm hỏa thái quá. Trong khi đó, Tâm hỏa thái quá không thể giáng xuống ôn ấm Thận thủy. Vì thế nửa người trên cơ thể sẽ chịu sự thái quá của Tâm hỏa, ngược lại nửa người dưới cơ thể sẽ chịu sự lạnh buốt và đông cứng của Thận thủy, dẫn đến các vấn đề như mất ngủ, di tinh, và một số trường hợp nặng có thể đẫn đến thần chí mê sảng (tâm thận bất giao, tâm hỏa độc khang).
Tinh và huyết hỗ sinh (biến đổi qua lại lẫn nhau)
Chức năng sinh lý của Tâm là chủ huyết, chức năng sinh lý của Thận là tàng tinh. Tinh và huyết là hai thành phần quan trọng trong cơ thể; tạo nên những chất cơ bản để duy trì hoạt động sống. Tinh của Thận có thể chuyển đổi thành huyết, và huyết có thể chuyển đổi thành tinh. Hoạt động sinh sản và chuyển đổi qua lại lẫn nhau cung cấp nguyên liệu cơ bản cho mối quan hệ chức năng của Tâm và Thận.
Tinh và thần hỗ dụng (sử dụng qua lại lẫn nhau)
Theo Đông y, Tâm tàng thần. Thần chủ quản tất cả hoạt động sống và bổ sung thêm cho tinh. Thận tàng tinh. Tinh chuyển vào tủy xương và não (bể của tủy). Tủy hợp lại làm đầy cho não.
Mặc dù hoạt động tinh thần là do Tâm làm chủ, nhưng trí nhớ, sự kiên trì, nghị lực, .v.v. là từ não, do vậy mới có quan điểm “Thận Tàng chí”. Mối quan hệ được thiết lập mạnh mẽ và mật thiết giữa Tâm và Thận đảm bảo cho Thận tinh (thuộc về Âm) thăng lên và kiểm soát Tâm thần. Ngược lại, quan hệ này cũng đảm bảo cho Tâm khí (thuộc về Dương) giáng xuống và kiểm soát Thận chí. Đông y cho rằng: Tinh là vật chất cơ bản của Thần và Thần là biểu hiện bên ngoài của Tinh. Thần sinh ra từ Tinh và phát xuất ra từ Tâm. Những hoạt động này cũng chịu ảnh hưởng qua lại của Tâm và Thận. Khi phần Âm thiếu hụt ở phần dưới cơ thể và phần Dương thái quá ở phần trên cơ thể thì Tâm sẽ không thể chứa được Thần và tinh cũng không thể giữ được cảm xúc. Dẫn đến các chứng điên cuồng, trầm cảm hoặc mất trí.
Thận liên quan với Can
Can tàng huyết, Thận tàng tinh. Can thúc đẩy những hoạt động thông sướng và điều đạt, trong khi thận thúc đẩy những hoạt động tàng trữ và giữ kín. Cả hai tạng đều thuộc hạ tiêu (một phần của Tam tiêu), có thể nói là cùng nguồn gốc. Chúng liên hệ với nhau cả về sinh lý và bệnh lý.
Thủy có thể dưỡng mộc
Theo học thuyết ngũ hành, Can thuộc mộc và Thận thuộc thủy. Can thúc đẩy sự hoạt động của khí thông sướng và điều đạt, là nơi tàng huyết và điều chỉnh thích hợp sự bổ sung huyết cho tuần hoàn và toàn cơ thể. Theo học thuyết ngũ hành, Thủy sinh Mộc. Đây là mối quan hệ mẹ con. Thận giúp tăng cường và nuôi dưỡng Can để nó có thể hoạt động chức năng bình thường. Một ví dụ khác là về mối quan hệ giữa Thận âm và Can âm. Thận âm nuôi dưỡng Can âm làm cho Can dương không thái quá. Mặt khác, Can âm góp phần tái tạo Thận âm. Trong đó, Thận âm có vai trò quan trọng hơn Can âm. Sự đầy đủ của Thận âm quyết định sự duy trì cân bằng động giữa chúng. Nếu Thận âm bị thiếu hụt, thủy không đủ để nuôi dưỡng mộc và dẫn đến phần âm bị hư tổn trong cả thận âm và can âm, cũng gây nên Can dương thái quá. Khi đó, nhiệt tà tích tụ quá mức trong cơ thể nên gây ra triệu chứng như đau đầu hay đau hông sườn sẽ xảy ra.
Tinh và huyết hỗ sinh (biến đổi qua lại lẫn nhau)
Tinh hậu thiên và huyết có chung nguồn gốc. Chúng được biến đổi từ tinh dinh dưỡng và là sản phẩm của quá trình tiêu hóa và chuyển đổi bởi Tỳ vị. Huyết được tàng ở Can và tinh được tàng ở Thận. Trong điều kiện sinh học bình thường, huyết được tàng ở Can cũng dựa trên sự nuôi dưỡng của Thận tinh. Ngược lại, Thận tinh cũng phụ thuộc vào sự bổ sung của Can huyết. Chúng biến đổi qua lại và nuôi dưỡng lẫn nhau.
Cả hai đều là tướng hỏa quan trọng
Tướng hỏa có nguồn gốc từ Mệnh môn, đó là Can và Thận. Nó có ở cả Can và Thận. Chúng quan hệ với quân hỏa (Tâm hỏa) và cả hai cùng phối hợp hoạt động chức năng với nhau như trong 1 vương quốc và đẩy mạnh hoạt động chức năng khỏe mạnh cho toàn cơ thể.
Chức năng của chúng đối ngược nhưng bổ sung cho nhau
Can chủ về sơ tiết và điều đạt, trong khi thận chủ về bế tàng (tàng trữ và giữ kín). Sơ tiết và bế tàng là biểu hiện tương phản tương thành. Một mặt sự sơ tiết thích hợp của Can khí đảm bảo Thận khí hoạt động bình thường trong phạm vi năng lực của nó mà không bị thái quá. Mặt khác, sự bế tàng của thận khí hạn chế chức năng của Can không vượt mức (Thái quá) hay thiếu hụt (Bất cập). Các hoạt động này đối ngược nhưng lại bổ sung cho nhau. Mối quan hệ đặc biệt này được thấy rõ trong quá trình phóng tinh của nam giới. Ví dụ khi Can mất sự thông sướng và điều đạt và Thận không tàng được tinh, can dương sẽ trở nên thái quá và ngũ hành sẽ không chế ước nhau được. Hỏa thịnh sẽ làm tinh rò rỉ chảy tràn ra ngoài, gây ra sự tăng xuất tinh ban đêm và mộng tinh (Tinh chảy ra ngoài tự ý mà không có cực khoái).
Thận ảnh hưởng đến Phủ
Với các phủ, Thận có quan hệ mật thiết nhất với phủ Bàng quang. Kinh Thận và kinh Bàng quang có mối quan hệ biểu lý với nhau. Hơn nữa, theo học thuyết ngũ hành, cả hai đều thuộc hành Thủy, vì vậy không lạ gì khi Thận và Bàng quang là hai cơ quan quan trọng trong vận chuyển nước toàn cơ thể.
Thận chủ thủy bằng việc điều hòa và bài tiết nước, Đông y mô tả Thận như một máy bơm. Còn Bàng quang chứa đựng và bài tiết nước tiểu, cũng là một bộ phận trong quá trình bơm nước. Theo quan niệm Đông y, quá trình hoạt động của chúng thực hiện những hoạt động này tương tự như việc đóng mở của các cửa van nước khác nhau. Chức năng khí hóa của Thận khí là yếu tố quyết định cho hoạt động chức năng của Bàng quang được bình thường. Khi Thận khí đầy đủ và chức năng bế tàng hoạt động thích hợp thì Bàng quang sẽ đóng mở đều đặn giúp duy trì hoạt động chứa đựng và thải nước tiểu. Khi thận khí thiếu hụt, dẫn đến Bàng quang đóng mở không đều đặn. Khi đó sẽ gặp phải những vấn đề như chứng phù, tiểu tiện không kiểm soát và tiểu nhiều lần. Vì thế những thay đổi bệnh lý về sự tàng trữ và bài tiết nước tiểu thường liên quan đến cả Bàng quang và Thận.
Thông thường, chức năng khí hóa và ôn ấm của Thận đảm bảo cho hoạt động bình thường của các phủ sau đây:
- Tiếp nhận và làm chín đồ ăn thức uống của Vị.
- Chứa đựng và làm biến đổi thức ăn trong Tiểu trường. Nó liên quan đến sự tiếp nhận thức ăn đã tiêu hóa từ Vị, rồi phân loại thành chất dinh dưỡng và chất thải.
- Truyền tống cặn bã và bài xuất phân trong Đại trường.
Nói chung theo quan điểm Đông y, Thận là tạng quan trọng nhất trong cơ thể. Chúng có thể được xem là nền tảng di truyền và gốc rễ của sự sống. Khi chúng ta lớn lên già đi, chức năng của Thận cũng bị sụt giảm một cách tự nhiên. Mỗi ngày hoạt động cơ bản, việc cốt yếu là tập trung bảo vệ và dinh dưỡng cho Thận, vì nó là nền tảng cơ bản cho sức khỏe lâu dài.